Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2024

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI, KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG “CHẢY MÁU CHẤT XÁM” TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

 

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

Chương I. Truyền thống trọng dụng nhân tài tại Việt Nam

1.1.                 Khái niệm trọng dụng nhân tài

1.2.                 Lịch sử và nguồn gốc của truyền thống trọng dụng nhân tài ở Việt Nam

Chương II. Vấn đề chảy máu chất xám tại Việt Nam hiện nay

2.1. Thực trạng chảy máu chất xám tại Việt Nam hiện nay.

2.2. Nguyên nhân và hậu quả của tình trạng chảy máu chất xám.

Chương III. Các biện pháp phát huy truyền thống trọng dụng nhân tài,  khắc phục tình trạng chảy máu chất xám ở Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN

 


 

MỞ ĐẦU

Lịch sử hình thành đất nước Việt Nam đã kéo dài qua hàng nghìn năm. Xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta đã phải đối mặt với biết bao nhiêu những khó khăn, gian khổ, dân tộc ta đã không ngừng chiến đấu chống chọi lại với thiên tai, giặc ngoại xâm và các thế lực thù địch khác. Trải qua hàng nghìn năm ròng rã chiến đấu, ông cha ta đã đúc kết, rèn rũa được những truyền thống vô cùng quý báu phải kể đến như: Truyền thống yêu nước; Tinh thần đoàn kết dân tộc; Truyền thống nhân đạo; Truyền thống hiếu học; Truyền thống tôn sư trọng đạo;…Không chỉ dừng lại ở đó, những truyền thống tốt đẹp này còn được dân tộc ta gìn giữ, phát huy và lưu truyền cho đến tận thế hệ sau này. Đặc biệt, có một truyền thống mà ở bất kể thời kỳ nào cũng được nhân dân ta coi trọng, đó chính là truyền thống trọng dụng nhân tài. Truyền thống trọng dụng nhân tài là một khía cạnh quan trọng của văn hóa chính trị Việt Nam, đã gắn liền với lịch sử và phát triển của đất nước. Truyền thống ý nghĩa này mang lại những giá trị vô cùng quan trọng và cần thiết cho xã hội Việt Nam hiện đại. Truyền thống trọng dụng nhân tài đánh dấu một phần không thể thiếu trong con người Việt Nam. Nó thể hiện lòng biết ơn và sự tôn trọng đối với những người có đóng góp xuất sắc trong các lĩnh vực khác nhau, từ nghệ thuật đến khoa học, và từ công việc hàng ngày đến việc lãnh đạo quốc gia. Bên cạnh đó, thể hiện sự nhân ái và lòng hiếu thảo, đồng thời tạo động lực cho cá nhân để nỗ lực hơn, đóng góp cho xã hội. Truyền thống trọng dụng nhân tài là một nguồn động viên mạnh mẽ cho sự phát triển cá nhân và xã hội, khuyến khích cá nhân phấn đấu hơn, đạt được những thành tựu cao hơn và đóng góp tích cực vào xã hội. Điều này làm cho mọi người có động cơ cao cả để phát triển tài năng và kiến thức của họ, góp phần vào sự nâng cao chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững của đất nước. Thấy được những đóng góp to lớn mà truyền thống trọng dụng nhân tài mang lại cho đất nước ta, chúng ta càng phải hiểu biết sâu hơn về truyền thống này cũng như phát huy truyền thống trọng dụng người tài một cách mạnh mẽ trong tương lai sau này.

Bên cạnh việc tìm hiểu sâu và phân tích truyền thống trọng dụng nhân tài, bài nghiên cứu còn tìm hiểu thêm về thực trạng chảy máu chất xám đang diễn ra ở Việt nam hiện nay. Thế giới chúng ta đang sống đang là thời đại kỷ nguyên số, tất cả mọi lĩnh vực đều đang phát triển 1 cách nhanh chóng nhờ vào những bước tiến công nghệ nhảy vọt. Thời kỳ này đang tạo ra vô số cơ hội cho con người nắm bắt và phát triển. Thế nhưng, bên cạnh những cơ hội thì luôn song hành với chúng là những thách thức khác nhau, trong đó có vấn đề chảy máu chất xám. Chảy máu chất xám là vấn đề đã và đang trở nên nóng hổi đối Việt Nam cũng như với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển. Vấn đề chảy máu chất xám đang diễn ra ở mọi lĩnh vực khác nhau trong đời sống, hiện tượng chảy máu chất xám đang diễn ra ngày càng phức tạp, gây ra thất thoát nguồn thu, kém tối đa hóa lợi ích cũng như gây nên sự chậm phát triển ở trong các lĩnh vực Kinh tế-Văn hóa-Chính trị của đất nước.

Tóm lại, để hiểu rõ hơn về truyền thống trọng dụng nhân tài của Việt Nam, bên cạnh đó tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám hiện nay, nhằm đề ra giải pháp giúp đẩy mạnh thúc đẩy, phát huy hiệu quả truyền thống trọng dụng nhân tài. Nhóm nghiên cứu đã chọn nghiên cứu đề tài: “PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI, KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG CHẢY MÁU CHẤT XÁM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY”.

 

 

 

 

 

 

 

NỘI DUNG

 

CHƯƠNG I

TRUYỀN THỐNG TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI TẠI VIỆT NAM

1.1.                 Khái niệm trọng dụng nhân tài

Trọng dụng nhân tài là một phương pháp quản lý nhân sự được coi là cốt lõi trong việc xây dựng và phát triển một tổ chức, công ty hoặc cộng đồng. Đây không chỉ là việc tuyển dụng nhân sự mà còn bao gồm việc tận dụng tối đa những năng lực, kiến thức và tiềm năng của mỗi cá nhân để đem lại giá trị cao nhất cho tổ chức. Trọng dụng nhân tài không chỉ đơn thuần là một chiến lược nhân sự mà còn là một triết lý, một cách tiếp cận đúng đắn trong việc quản lý con người.

Cơ bản, trọng dụng nhân tài đặt con người vào trung tâm của mọi quyết định và hoạt động của tổ chức. Nó không chỉ chú trọng vào việc tìm kiếm và thu hút những ứng viên tài năng mà còn là việc xác định, phát triển và duy trì tài năng này. Điều này bao gồm việc tạo điều kiện thuận lợi để nhân viên phát triển kỹ năng, mở rộng kiến thức thông qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ nghỉ phép linh hoạt để họ có thể cân bằng cuộc sống cá nhân và công việc, cũng như xây dựng môi trường làm việc thúc đẩy sự sáng tạo và cống hiến.

Một trong những yếu tố quan trọng của trọng dụng nhân tài chính là việc hiểu rõ và đáp ứng nhu cầu của từng nhân viên. Mỗi người đều có những mục tiêu, ước mơ và động lực cá nhân riêng, và việc công nhận và tôn trọng điều này sẽ giúp họ cảm thấy được coi trọng và hỗ trợ để phát triển. Bằng cách tạo ra môi trường làm việc linh hoạt, khuyến khích sự đa dạng ý kiến, và thúc đẩy sự sáng tạo, tổ chức có thể kích thích sự tiến bộ và đổi mới.

Không chỉ tập trung vào khía cạnh cá nhân, trọng dụng nhân tài cũng liên quan mật thiết đến mục tiêu và chiến lược tổ chức. Việc định hình và phát triển nhân tài phải đi đôi với việc đảm bảo rằng các mục tiêu cá nhân liên kết mạch lạc với mục tiêu tổng thể của tổ chức. Sự phù hợp giữa cá nhân và tổ chức không chỉ tạo ra một môi trường làm việc tích cực mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững cho cả hai bên.

Ngoài ra, việc quản lý và duy trì nhân tài cũng đòi hỏi sự linh hoạt và sẵn sàng thích nghi với những thay đổi trong môi trường kinh doanh và xã hội. Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, xu hướng mới và môi trường cạnh tranh khốc liệt đều đặt ra thách thức lớn trong việc duy trì và phát triển nhân tài. Do đó, việc không ngừng đầu tư vào việc đào tạo, phát triển kỹ năng mới và tạo ra các cơ hội tiến thêm trong sự nghiệp là điều cần thiết để duy trì sự hấp dẫn của tổ chức với nhân tài.

Trọng dụng nhân tài không chỉ đem lại lợi ích cho cá nhân và tổ chức mà còn góp phần vào sự phát triển toàn diện của xã hội. Việc tạo ra môi trường làm việc tích cực, khuyến khích sự đa dạng và thúc đẩy sự sáng tạo không chỉ ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc mà còn đem lại giá trị văn hóa và xã hội lớn hơn.

Nhìn chung, trọng dụng nhân tài không chỉ đơn thuần là một chiến lược quản lý nhân sự mà là một triết lý, một cách tiếp cận toàn diện đối với việc quản lý và phát triển con người. Đây là yếu tố quyết định quan trọng để tổ chức không chỉ tồn tại mà còn phát triển và vươn lên trong môi trường cạnh tranh ngày nay.

1.2.                 Lịch sử và nguồn gốc của truyền thống trọng dụng nhân tài ở Việt Nam

Trọng dụng nhân tài là 1 truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Xuyên suốt quá trình hình thành và xây dựng đất nước, ngay từ những ngày đầu tiên, khi đất nước ta vừa mới giành được độc lập từ tay giặc ngoại xâm phương Bắc, ông cha ta đã ý thức rất rõ về tầm quan trọng của người hiền tài.

Ngay trong triều đại nhà Đinh, Tiền Lê, triều đình đã có những hành động thiết thực nhằm tận dụng những người hiền tài của đất nước lúc bấy giờ. Thời kì này, nhà nước đang trong thời gian xây dựng và củng cố đất nước, bối cảnh đất nước lấu bấy giờ đang vô cùng là khó khăn và thiếu thốn. Hệ thống quan liêu nhằm phục vụ cho tổ chức bộ máy nhà nước còn chưa được đào tạo bài bản. đứng trước tình trạng này, nhà vua đã ra chủ trương trọng dụng nhân tài trong giới  cao tăng và đạo sĩ. Nhà nước có nhiều hoạt động tích cực trong việc vận động, khuyến khích tăng, đạo sĩ bộc lộ tài năng, cống hiến cho triều đình. Vua cho ban hành chính sách phong phẩm, phong hàm cho các cao tăng và đạo sĩ tiêu biểu. Các vị cao tăng được triều đình cho giữ những chức vụ quan trọng, đảm nhận những công việc vô cùng trọng đại (đón tiếp sứ giả, lo việc triều chính…).

Cho đến thời nhà Lý, triều đình nhà Lý bắt đầu nhận thấy vai trò quan trọng của hệ thống giáo dục đối với một đất nước độc lập. Vua và các quan thần cho rằng không thể trông chờ vào những “nhân tài” trăm năm mới có một lần mà chúng ta phải chủ động trong việc tạo ra những người hiền tài, chính quan điểm này đã cho chúng ta thấy rằng triều đình đã tỏ rõ sự quan tâm đến vấn đề nuôi dưỡng người hiền tài. Để có thể chủ động được thì hệ thống giáo dục và thi cử của đất nước phải được xây dựng một cách chỉnh chu. Sử sách đã chứng minh, triều đại nhà Lý là triều đại đầu tiên trong lịch sử Việt Nam xác lập hệ thống giáo dục khoa cử bài bản. Để khuyến khích việc học hành, mở mang dân trí, năm 1070, Lý thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu, tháng 8 làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế, Hoàng Thái tử đến đây học”. Cho đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông mới lập ra Quốc Tử Giám, đây được coi là nơi cho con em quan lại theo học. Trong thời kì này, triều đình tổ chức các khoa thi định kỳ nhằm phát hiện nhân tài.

Đối với nhà Trần, hệ thống giáo dục bắt đầu mang màu sắc thế tục, trường học được hình thành tách rời khỏi nhà chùa, ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tôn giáo. Các thái học sinh và nhà nho không làm quan thì lui về quê dạy học, do vậy hệ thống trường lớp được hình thành ở các địa phương. Các trường học cứ như thế được mở ra chào đón dạy học cho dân chúng nhằm đào tạo và tìm kiếm người tài.  Sau khi thành lập không lâu, nhà Trần bắt đầu thực hiện chế độ khoa cử để chọn người tài giúp nước. Các khoa thi được triều đình cho mở định kỳ (khoa thi thái học sinh tổ chức 7 năm một lần). Chỉ trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi, lấy 283 người đỗ, biết bao nhiêu những nhân tài đã được triều đình thu nạp bồi dưỡng để có thể phục vụ cho đất nước.

Đến thời đại nhà Lê Sơ, nho giáo đã trở thành quốc giáo. Nho giáo chiếm vị trí độc tôn, phật giáo và đạo giáo bị hạn chế. Nho giáo được truyền bá rộng dãi trong xã hội đương thời kéo theo đó tần lớp nho sĩ trở nên ngày càng đông đảo hơn, đây trở thành tiền đề giúp cho triều đình có thêm nguồn nhân lực trong vấn đề bồi dưỡng đào tạo nhân tài mới. Giáo dục và thi cử đã đạt đến trình độ phát triển nhất trong các thời kì phong kiến ở Việt Nam. Năm 1428, sau khi đất nước vừa được giải phóng, Vua Lê Lợi đã cho xây dựng và tổ chức lại hệ thống giáo dục nhằm nuôi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ đáp ứng nhu cầu cho bộ máy cơ quan chính quyền. Vua Lê Thái Tổ cho mở nhà học, lấy cỗ Thái lao (cỗ tam sinh: Trâu, bò, dê) để tế Khổng Tử. Vua Lê Thái Tổ đã cho chọn con cháu các quan và nhà thường dân tuấn tú vào Quốc Tử Giám làm Giám sinh và xuân thu nhị kỳ đích thân nhà vua làm chủ tế tại Văn Miếu. Đến thời vua Lê Thánh Tông, ngài đã định lại lệ xướng danh và cho dựng bia đá, lập bia tiến sĩ tại văn miếu nhằm tôn vinh những bậc hiền tài đã có công cống hiến cho sự phát triển của đất nước.

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương II

Vấn đề chảy máu chất xám tại Việt Nam hiện nay

2.1. Thực trạng chảy máu chất xám tại Việt Nam hiện nay.

Chảy máu chất xám là căn bệnh diễn ra ở hầu hết các quốc gia phát triển, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển. Căn bệnh này đã và đang là vấn đề nguy cấp đối với rất nhiều quốc gia trên thế giới trong đó, tình trạng này cũng diễn ra một cách nghiêm trọng trên chính đất nước Việt Nam.

Căn bệnh chảy máu chất xám diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi độ tuổi, ngành nghề khác nhau. Đối với tầng lớp là học sinh và sinh viên, theo thống kê của cục Hợp tác Quốc tế BGD&ĐT trong hội thảo khoa học tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết 29-NQTW cho biết có đến gần 200.000 du học sinh Việt Nam học tập tại nước ngoài ở bậc trung học phổ thông, đại học và sau đại học. Theo đó, hơn 40.000 người du học mỗi năm (tăng gần 2.5 lần so với giai đoạn trước năm 2013). Cho đến thời điểm đại dịch covid 19 diễn ra, số lượng du học sinh ra nước ngoài học tập và làm việc đã bị hạn chế, tuy nhiên con số 40.000 du học sinh đang sinh sống và học tập tại nước ngoài là một số lượng vô cùng lớn. Không dừng lại ở đó, số lượng giảng viên các trường đại học và cao đẳng thống kê đi thực tập , nghiên cứu ở nước ngoài được hỗ trợ bằng nguồn ngân sách nhà nước đạt đến con số là 3.535 người (2013-2022).

Thực trạng đáng buồn là với số lượng tri thức trẻ học tập và làm việc tại nước ngoài đông đảo như vậy, tuy nhiên chỉ có khoảng 30% du học sinh chọn trở lại quê hương Việt Nam để tiếp tục cống hiến, còn lại đến 70% du học sinh không chọn trở lại quê hương sau khi tốt nghiệp (số liệu của bộ giáo dục và đào tạo).

Ví dụ dễ thấy nhất của tình trạng này chúng ta có thể quan sát được ở trong chương trình truyền hình Đường lên đỉnh Olympia. Chương trình Đường lên đỉnh Olympia là một cuộc thi tri thức, chương trình đã được lên sóng gần 24 năm, cuộc thi đã cho ra đời 22 nhà vô địch và chuẩn bị đón tiếp thêm quán quân thứ 23. Tuy nhiên trong số 22 nhà vô địch cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia thì chỉ có 3 người chọn trở lại về nước, có đến tận 19 người chọn ở lại định cư, làm việc và lập gia đình tại nước đang du học.

Tình trạng chảy máu chất xám này không chỉ diễn ra ở nguồn lao động tri thức trẻ của Việt Nam mà nó còn xảy ra ở trong cả những cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Theo kết quả điều tra về xu hướng chuyển dịch nguồn nhân công: Dịch chuyển từ khu vực nhà nước với vốn đầu tư công chuyển dịch sang khu vực tư nhân và đặc biệt là đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao ( 51 % số lượng người lao động từ nhà nước qua). Về tình hình công chức viên chức nghỉ việc, thôi việc, theo số liệu tổng hợp của 63 địa phương và các bộ, ngành, từ 1/1/2020 đến 30/6/2022, số công chức, viên chức nghỉ việc, thôi việc là 39.552 người, bằng 1,94% tổng biên chế công chức, viên chức. Trong đó, số công chức là 4.029 người, chiếm 10% tổng số công chức, viên chức thôi việc. Viên chức là 35.532 người, chiếm 90%.  Trong một vài năm trở lại đây, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư thuộc nhà nước đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao nghiêm trọng. Trong cuộc gặp gỡ trao đổi và đối thọai của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc với các công nhân lao động kỹ thuật cao diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh ngày 05/5/2019, Tổng Giám đốc hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) cho biết, Hãng Hàng Không quốc gia đang phải gồng mình trước khó khăn mang tên “chảy máu chất xám”, ông còn cho biết thêm, có đến 30% số phi công xin thôi việc để đầu quân cho các Hãng Hàng Không tư nhân khác. Đối với ngân hàng Nhà nước Việt Nam, từ đầu năm tới nay, số lượng nhân viên xin nghỉ việc đã đạt tới con số 100 người bao gồm các cán bộ, công chức, vụ trưởng. Số lượng nhân viên thôi việc đa số đầu quân cho các công ty, doanh nghiệp tư nhân, các công ty tài chính khác nhau. Tình trạng này cũng diễn ra phổ biến ở các doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước khác như: Tập đoàn Than, Khoáng sản Việt nam, Tập đoàn Điện lực… Đáng lo ngại rằng, số lượng nhân lực thôi việc đều là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản, có quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài. Đây là hồi chuông cảnh tỉnh báo hiệu tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao đối với mọi lĩnh vực trong xã hội.

2.2. Nguyên nhân và hậu quả của tình trạng chảy máu chất xám.

Tình trạng chảy máu chất xám diễn ra ở Việt Nam kéo dài hàng thập kỉ, các nhà nghiên cứu đã có những tuyên bố về thực trạng cũng như nguyên nhân của căn bệnh này. Cũng như các vấn đề xã hội khác, vấn đề chảy máu chất xám bao gồm nhiều những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Có thể kể đến những nguyên nhân chính dưới đây:

Thứ nhất, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập trên thế giới đang là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến tình trạng chảy máu chất xám tại Việt Nam. Việt Nam đã gia nhập ASEAN năm 1995; ASEM năm 1996; APEC năm 1998; WTO năm 2007; CPTPP năm 2018. Đã đăng cai thành công Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2006 và 2017; hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần hai năm 2019… Có thể thấy Việt Nam đang vô cùng tích cực tham gia vào các tổ chức trong khu vực và quốc tế nhằm đóng góp, quảng bá, tạo vị thế cho đất nước. Tuy nhiên việc tham gia vào các sân chơi lớn của quốc tế là con dao hai lưỡi, nó ảnh hưởng mạnh đến tình trạng chảy máu chất xám diễn ra hiện nay. Xu thế hội nhập quốc tế ảnh hưởng đến xu hướng chuyển dịch nguồn lao động của Việt Nam, đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng cao. Người lao động đã có thêm sự lựa chọn, cơ hội tiếp xúc, làm việc và định cư tại nước ngoài.

Thứ hai, do sự phát triển kém của khoa học và công nghệ của Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận tri thức trẻ. Những người tri thức Việt Nam tại nước ngoài cho biết rằng đối với một số ngành nghề, lĩnh vực đặc thù thì yêu cầu về cơ sở vật chất lẫn môi trường học tập và làm việc phải được đáp ứng đủ. Trong các lĩnh vực mang tính chất học thuật cao, người học có yêu cầu cao hơn về môi trường nghiên cứu lẫn cơ sở vật chất. Thực tế cho thấy rằng tại Việt Nam, so với các nước phát triển, đa số những phòng LAP ở Việt Nam chưa được trang bị cơ sở vật chất, trang bị những công nghệ kỹ thuật đầy đủ gây nên tình trạng thiếu thốn nguồn lực làm nghiên cứu, kéo theo đó hoạt động nghiên cứu gặp nhiều khó khăn và gây tốn thời gian. Từ đó lượng lớn người nghiên cứu đã tìm hiểu và lựa chọn ra nước ngoài đề tiếp tục nghiên cứu và làm việc.

Thứ ba, do chính sách đãi ngộ và chế độ tiền lương. Vấn đề kinh tế đang đặt nặng lên vai người lao động và các nhà xây dựng chính sách. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định trở về Việt Nam của lực lượng du học sinh và tầng lớp tri thức đang làm việc tại nước ngoài. Mức lương cơ bản khi trở về Việt Nam làm việc của các du học sinh và những người thuộc tầng lớp tri thức theo báo cáo mới đây là tương đối thấp so với các nước mà họ đang học tập và làm việc, với mức thu nhập bình quân này thì không thể đáp ứng được nhu cầu của bộ phận này. Một khảo sát mới đây của Công ty dịch vụ đầu tư quốc tế Dezan Shira & Associates cho thấy, tiền lương trung bình tháng của Việt Nam chỉ bằng 1/4 so với Malaysia và bằng 1/2 tiền lương ở Thái Lan và Trung Quốc. Trong khu vực Đông Nam Á, tiền lương của Việt Nam cao hơn Indonesia 47 USD/tháng. Trong khi theo báo cáo về tiền lương toàn cầu 2014-2015 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong các nước ASEAN, mức lương bình quân của Việt Nam ở mức 3,8 triệu đồng/tháng (181 USD). Mức lương này chỉ cao hơn Lào (119 USD), Campuchia (121 USD) và thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực ASEAN như Philippines (206 USD), Thái Lan (357 USD), Malaysia (609 USD), Singapore (3.547 USD). Việt Nam vẫn thuộc nhóm có mức lương tối thiểu thấp nhất trong khu vực ASEAN. ILO còn cho biết, Việt Nam chỉ có khoảng 1/3 số lao động có việc làm là được hưởng lương. Tỉ lệ này khá thấp so với trung bình trên thế giới là khoảng 50%.

Thứ tư, do chính sách thu hút nhân tài của Việt Nam chưa thực sự diễn ra đúng như mong muốn. Mặc dù đã có những chính sách hỗ trợ, nhưng đôi khi vẫn còn rào cản thuế và hỗ trợ quá phức tạp hoặc không linh hoạt đủ để thu hút người tài. Những quy định về visa và thủ tục xuất nhập cảnh vẫn còn nhiều điểm hạn chế dẫn đến gây khó khăn và mất thời gian cho những người tài năng quốc tế muốn làm việc hoặc định cư tại Việt Nam. Mặc dù đã có những cải tiến, nhưng vẫn còn rào cản và thách thức đối với việc khởi nghiệp và đổi mới, đặc biệt là với các startup và người sáng tạo.

Bên cạnh những nguyên nhân được nêu trên có thể kể thêm những nguyên nhân khác gây nên tình trạng chảy máu chất xám ở Việt Nam hiện nay như là: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường dẫn đến tình trạng di cư và chảy máu chất xám; hoặc vấn đề bất cập trong lĩnh vực tuyển dụng lao động (COCC, coi trọng quan hệ,…).

Do những nguyên nhân nêu trên nên hậu quả hàng năm đất nước ta đang đánh mất số lượng người lao động tri thức cực kỳ lớn. Tình trạng thiếu thốn nguồn lực lao động chất lượng cao đang diễn ra phổ biến. Kết quả gây nên tổn thất cho nên kinh tế nghiêm trọng. Tóm lại, hậu quả tiêu cực của chảy máu chất xám khiến đất nước Việt Nam không thể phát triển nhanh để bắt kịp đà văn minh của nhân loại, vì thế càng ngày càng tụt hậu. Đây đã và đang là một vấn đề quan tâm không chỉ của riêng Việt Nam mà còn của toàn thế giới vì chính những khu vực đói nghèo, lạc hậu này là nguyên nhân của sự bất ổn có thể lan tràn ảnh hưởng lên toàn cầu.

 

 

 

 

Chương III

Các biện pháp phát huy truyền thống trọng dụng nhân tài,  khắc phục tình trạng chảy máu chất xám ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, Áp dụng các hình thức phát hiện và thu hút nhân tài phù hợp với từng lĩnh vực và điều kiện của mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị

Trước hết cần nhận thức rõ nguồn nhân tài của đất nước ta rất phong phú, nhưng muốn phát hiện, thu hút được nhân tài, có thể phải vượt qua những quy định thông thường  để mở rộng các kênh thu hút như điều tra, phỏng vấn, công khai chiêu hiền, đãi sĩ, thu thập thông tin, thi tuyển, giới thiệu, tiến cử và tự tiến cử... 

Trong điều kiện cạnh tranh giành giật nhân tài như hiện nay, phát hiện và thu hút nhân tài không chỉ là phát hiện những nhân tài đã lộ rõ, mà quan trọng là phải nghiên cứu, xây dựng chính sách thích hợp để thu hút được những nhân tài tiềm năng như: sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, thủ khoa; ứng viên đạt điểm cao nhất trong các kỳ thi tuyển dụng; sinh viên tốt nghiệp các trường đại học danh tiếng trên thế giới; những người sớm bộc lộ các năng khiếu đặc biệt... Thực tế cho thấy, muốn phát hiện và tuyển dụng được những người tài giỏi vào khu vực công phải chú ý tới những sinh viên xuất sắc đang đứng trước sự lựa chọn nghề nghiệp trước khi rời ghế nhà trường. Do đó, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhân sự với các các trường đại học trong việc theo dõi học bạ, kết quả học tập và kết quả thi tuyển nhằm sơ tuyển những ứng cử viên tiềm tàng cho khu vực công.

Sử dụng các phương pháp thu hút nhân tài phù hợp với khả năng, điều kiện của cơ quan và nhu cầu, nguyện vọng của nhân tài. Trường hợp cơ quan, đơn vị cần người đó đảm trách công việc lâu dài và nhận thấy họ có khả năng thăng tiến để đảm nhiệm những công việc quan trọng hơn hoặc họ là người không có khả năng thay thế hay đang là đối tượng thu hút của đối thủ cạnh tranh, cần có chính sách và biện pháp để thu hút, tuyển dụng nhằm sở hữu nhân tài. Đối với trường hợp không có nhu cầu hoặc không đủ khả năng sở hữu nhân tài, nên có cơ chế thu hút, cộng tác thích hợp nhằm sử dụng nhân tài phục vụ công việc của cơ quan, đơn vị. 

Thực hiện rộng rãi chính sách bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển cạnh tranh rộng rãi, công khai nhằm tạo được động lực và quan tâm của nhân tài. áp dụng chính sách “tiến cử” và “tự tiến cử”; quy định rõ vị thế cũng như trách nhiệm cụ thể của người tiến cử nhân tài; công khai hóa người tiến cử và nhân tài được tiến cử để xã hội có điều kiện giám sát.

Xây dựng các tiêu chí đánh giá và quy trình sàng lọc nhân tài. Các tiêu chí đánh giá người có tài năng phải cụ thể, gắn với nhiệm vụ, vị trí công việc được giao, sát hợp với yêu cầu, đặc điểm của cơ quan, đơn vị. Đồng thời phải áp dụng quy trình thử thách, sàng lọc nhân tài rõ ràng, công khai, minh bạch.

Thứ hai, Kết hợp chặt chẽ giữa phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ nhân tài Quán triệt quan điểm của Đảng: ”Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều tài năng có thể mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng chỗ, đúng lúc”. Do đó, cần xây dựng chính sách phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài đồng bộ, hợp lý và thực hiện theo một quy trình thống nhất, liên hoàn gồm nhiều giai đoạn, nhiều khâu: phát hiện, (nguồn, đối tượng, tiêu chí và phương thức tuyển chọn); đào tạo, bồi dưỡng (nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng; tiêu chí và quy trình sàng lọc) và bố trí, sử dụng (cọ xát thực tiễn, thử thách; tiêu chí, quy trình, cơ chế bổ nhiệm; chế độ, chính sách đãi ngộ); trong đó sử dụng vừa là mục tiêu vừa là động lực của quy trình phát triển tài năng. Thực tế hiện nay cho thấy, tuyển được nhân tài đã khó, nhưng việc giữ được nhân tài còn khó hơn rất nhiều lần trong bối cảnh cạnh tranh nhân lực gay gắt từ khu vực ngoài nhà nước vốn rất năng động và nhiều cơ hội.

Coi trọng cả đức và tài, phải xem phẩm chất đạo đức, năng lực và thành tích, cống hiến là những tiêu chí cơ bản đánh giá nhân tài, là cơ sở cho việc sử dụng và đãi ngộ nhân tài. Đồng thời, việc trọng dụng nhân tài phải hợp lý, tức là “tùy tài mà sử dụng”, tuyển dụng nhân tài phải căn cứ vào ưu thế về tố chất nhân cách và sở trường tài năng của đối tượng mà bố trí, bổ nhiệm chức trách phù hợp để vừa phát huy được tối đa tài năng của nhân tài, vừa giúp nhân tài tiếp tục phát triển và cống hiến. Phải chú ý đến những khác biệt về khuynh hướng tài năng, về mức độ trí lực, về nhân cách, về tố chất thể lực... trong việc bố trí, sử dụng nhân tài; không nên lẫn lộn giữa nhân tài về chuyên môn khoa học, kỹ thuật hoặc văn học, nghệ thuật với nhân tài về lãnh đạo, quản lý. Khắc phục tình trạng thu hút nhân tài theo kiểu phong trào như một số địa phương đang thực hiện, gây lãng phí nhiều mặt cho nhân tài và xã hội.

Để thu hút được nhân tài vào làm việc trong khu vực công, phải tạo được môi trường công tác và điều kiện làm việc tốt như: không khí làm việc dân chủ, công khai, minh bạch; phương tiện làm việc, điều kiện thông tin nhanh, kịp thời, đầy đủ; đảm bảo cho nhân tài có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong lĩnh vực hoạt động của mình cũng như có một số “quyền” nhất định trong tự do tư tưởng, điều kiện làm việc, cơ hội cống hiến, chấp nhận một số “tật”. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi về tổ chức, pháp lý và các điều kiện vật chất, tinh thần để nhân tài có thể bộc lộ và phát huy cao nhất tài năng của mình; tin dùng, trao trách nhiệm tương xứng cho nhân tài, đồng thời bảo vệ nhân tài.    

Đổi mới chính sách tiền lương đối với nhân tài, đảm bảo cuộc sống ở mức khá của xã hội, tương đương với thu nhập của người có trình độ, năng lực hoạt động trong khu vực tư; có chính sách nhà ở và phương tiện làm việc hợp lý đối với nhân tài; tôn vinh, đề cao vị trí xã hội của họ, đồng thời đặt ra yêu cầu cao đối với nhân tài về nhân cách, nghĩa vụ đóng góp, cống hiến cho cộng đồng, xã hội.    

Thứ ba, Đảm bảo các điều kiện xây dựng và thực thi chính sách phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài

Thống nhất nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý về tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển nhân tài trong thời đại ngày nay. Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở Trung ương cũng như địa phương. Phải có chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi những người có tài, có đức, không phân biệt người trong Đảng hay ngoài Đảng, người trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; những người có đức, tài và tâm huyết với quê hương, đất nước đều được trọng thị, trọng dụng và trọng đãi, khắc phục tư tưởng thành kiến, hẹp hòi, phân biệt đối xử.

Hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức, viên chức theo hướng kết hợp chế độ chức nghiệp với chế độ vị trí việc làm; căn cứ tính chất, nội dung và yêu cầu công việc để thu hút và bố trí nhân tài; đánh giá nhân tài theo chất lượng và kết quả đầu ra. Đề cao trách nhiệm phát hiện, sử dụng nhân tài của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị, đồng thời quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của họ trong việc tuyển chọn, bố trí, sử dụng nhân tài; tạo ra áp lực cạnh tranh thu hút và sử dụng nhân tài giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị, tức là tạo ra ”cầu” về nhân tài. Cải cách mạnh mẽ chế độ tiền lương, bảo đảm nguồn thu nhập chính từ tài năng, cống hiến cho cơ quan, đơn vị và đất nước; dành cho nhân tài những ưu đãi vật chất đặc biệt cần thiết.

Đầu tư nguồn lực phục vụ phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài và đảm bảo việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả; nghiên cứu lập Quỹ nhân tài. Thành lập tổ chức chuyên trách chịu trách nhiệm nghiên cứu xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhân tài thống nhất từ Trung ương đến địa phương; đảm bảo cho tổ chức này có đủ thẩm quyền và nguồn lực để thực thi và chịu trách nhiệm theo dõi diễn biến của quá trình phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, kết hợp với các cơ quan có liên quan để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình sử dụng nhân tài với những chính sách ưu tiên cần thiết. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực của các đơn vị làm công tác tổ chức - cán bộ; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức làm công tác nhân sự. Xây dựng trang thông tin điện tử về nguồn nhân lực có trình độ cao, về nhân tài nhằm thông tin một cách công khai, minh bạch về tiêu chí, quy trình, điều kiện phát hiện, thu hút và đãi ngộ nhân tài. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng tài năng và thu hút nhân tài là người nước ngoài.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

Phát huy truyền thống trọng dụng nhân tài và khắc phục tình trạng "chảy máu chất xám" tại Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự đổi mới và cải thiện liên tục trong chính sách và hệ thống quản lý nhân sự. Việc này không chỉ là mục tiêu ngắn hạn mà còn là một quá trình dài hạn, yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, các doanh nghiệp và cộng đồng.

Để thúc đẩy sự phát triển bền vững, Việt Nam cần tập trung vào việc xây dựng một môi trường làm việc hấp dẫn và cạnh tranh. Điều này có thể đạt được thông qua việc cải thiện mức lương, phúc lợi và điều kiện làm việc, đồng thời tạo ra các cơ hội thăng tiến và phát triển sự nghiệp cho nhân tài.

Việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo cũng là một yếu tố then chốt. Hệ thống giáo dục phải linh hoạt và phản ánh đúng nhu cầu của thị trường lao động, giúp hình thành những nguồn nhân lực có kỹ năng và kiến thức tương xứng với yêu cầu của thời đại.

Đồng thời, chính sách hỗ trợ cho việc khởi nghiệp và đổi mới cần được thúc đẩy để khuyến khích sự sáng tạo và tính cạnh tranh trong nền kinh tế số.

Tầm nhìn chiến lược và sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo cùng với sự đồng lòng và sự hợp tác của cộng đồng là chìa khóa để vượt qua tình trạng "chảy máu chất xám". Việt Nam cần tận dụng tri thức và tiềm năng của mọi người, từ cả trong nước và quốc tế, để xây dựng một xã hội phồn vinh và phát triển bền vững. Chỉ khi đó, "chất xám" không chỉ được giữ lại mà còn được phát triển và khai thác tối đa, góp phần vào sự thịnh vượng của đất nước.

 

 

 

 

Danh mục tài liệu tham khảo

1.  Đại Việt sử ký toàn thư (tái bản 2020), Lê Văn Hưu (Dịch giả Đào Duy Anh), Nxb Hồng Đức

2.  Giáo trình Lịch Sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 2 (1959), Phan Huy Lê, Nxb Giáo dục

3.  Tập bài giảng chính trị học (1999), Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

4.  Ô nhiễm môi trường có thể thúc đẩy di cư và chảy máu chất xám (2022), Hà Thị Hồng Hạnh, Đỗ Thị Hồng Uyên, Đại học Quốc gia Hà Nội

5.  Kinh tế học về chảy máu chất xám lý thuyết, mô hình và một số hàm ý chính sách cho Việt Nam : Đề tài NCKH. QGTĐ.10.22 (2013), Nguyễn Đức Thành,  Phạm sĩ Thành, Phạm Tuyết Mai, Nxb ĐHQGHN

6.  Phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài - cần đột phá toàn diện từ chính sách tới thực tiễn (2022), TS. Trần Thị Minh-Ngô Xuân Thủy

https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phat-hien-thu-hut-va-trong-dung-nhan-tai-can-dot-pha-toan-dien-tu-chinh-sach-toi-thuc-tien-ky-ii-

7.  https://www.vietnamplus.vn/viet-nam-co-khoang-40000-nguoi-di-du-hoc-nuoc-ngoai-moi-nam-post905176.vnp

8.  https://media.qdnd.vn/long-form/doi-ngu-tri-thuc-nhung-nguoi-lam-hung-thinh-dat-nuoc-bai-2-ngan-ngua-tinh-trang-chay-mau-chat-xam-57227

 

Đọc tiếp »

Nguồn gốc tôn giáo và sự phát triển của khoa học và tôn giáo trong thời đại ngày nay


A - MỞ ĐẦU :

 

 

          Thế giới chúng ta đang sống đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 – một thế kỷ được dự đoán là văn minh – khoa học nhất, với sự bùng nổ của tin học và nền kinh tế tri thức. Kể từ sau thế chiến thứ 2, xu hướng toàn cầu hóa triệt để tạo bước nhảy mạnh mẽ thay đổi cuộc sống con người theo xu hướng ngày càng vững mạnh, hiện đại và nhanh chóng, thuận tiện trong mọi lĩnh vực của đời sống sinh hoạt con người. Bối cảnh kinh tế thế giới kéo theo sự chuyển biến không nhỏ về văn hóa, trong đó có cả tôn giáo. Có nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo được đặt ra. Tôn giáo đã và đang trở thành một vấn đề đáng được quan tâm đến trong bối cảnh thế giới hiện tại.

          Tôn giáo từ xưa đến nay, tôn giáo là vấn đề thiết yếu và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội của nhân dân trên khắp thế giới. Ngày nay, trong nhiều vấn đề bức xúc đặt ra trước nhân loại, vấn đề tôn giáo càng được đặc biệt quan tâm hơn bao giờ hết. Các hiện tượng phong trào tôn giáo mới ra đời vừa phản ánh tình trạng khủng hoảng toàn cầu hiện nay, vừa phản ánh sự suy giảm của các tôn giáo chủ lưu, tinh thần khô đạo, nhạt đạo trong tôn giáo, hiện tượng phát triển bùng nổ của đạo hồi trên toàn thế giới cũng là câu hỏi được đặt ra cho nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo. Bên cạnh đó, hiện tượng mê tín dị đoan, những hoạt động kỳ quái biến thể từ tôn giáo… tất cả đang đưa tôn giáo trở thành một bài toán khó, thách đố chúng ta.

          Nghiên cứu tôn giáo là 1 giải pháp đúng đắn, và quan trọng nhất là để chúng ta có 1 cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề tôn giáo. Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, tôn giáo đã, đang và sẽ tồn tại cùng với sự phát triển của đời sống xã hội loài người. Tôn giáo là 1 hiện tượng xã hội, sinh ra trong xã hội, lớn lên trong xã hội nên quá trình biến đởi của tôn giáo có quan hệ liên tục với xã hội, cũng có ý nghĩa rằng tôn giáo và xã hội là 2 phậm trù có mối liên hệ gắn liền với nhau, không thể chia cắt được. Chính vì thế, nghiên cứu nguồn gốc của tôn giáo là cơ sở khoa học lý luận đầu tiên để chúng ta nhìn nhận, đánh giá sự tồn tại của tôn giáo trong thời đại ngày nay cùng những vấn đề tôn giáo phát sinh.

Trong tình hình tồn tại và phát triển của tôn giáo hiện nay, nghiên cứu lại 1 trong những vấn đề cơ bản của tôn giáo học Mác-xít là vấn đề nguồn gốc của tôn giáo giúp chúng ta đưa ra được những đánh giá đúng đắn, mới mẻ về sự tồn tại của tôn giáo trong thời đại ngày nay, đúng với quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo và phù hợp với thực tiễn, bối cảnh xã hội hiện tại. Đặc biệt, đi sâu và làm sáng tỏ nguồn gốc xã hội của tôn giáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về qua trình hình thành và phát triển của tôn giáo, những điều kiện, cơ sở để tôn giáo có thể được tồn tại và phát triển mạnh mẽ. Chính vì vậy, trong bài nghiên cứu này, em đã chọn đề tài: “ Nguồn gốc xã hội của tôn giáo và những vấn đề liên quan”. Trong phạm vi kiến thức còn hạn hẹp, mục đích chính của em là nghiên cứu, tìm hiểu về nguồn gốc của tôn giáo, mấu chốt là nguồn gốc xã hội của tôn giáo, đưa ra được những chứng cứ thực tiễn chứng minh cho quan điểm, bên cạnh đó đưa ra các ý kiến xung quanh vấn đề sự phát triển của khoa học và tôn giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

B – NỘI DUNG :

1.    Bản chất của tôn giáo

Trước khi tìm hiểu về nguồn gốc xã hội của tôn giáo thì trước hết, ta hãy đi vào tìm hiểu sơ qua về bản chất của tôn giáo, qua đó có một cái nhìn rõ nét nhất về các vấn đề liên quan đến phạm trù này.

Tôn giáo là 1 hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Trên thế giới có tới hàng nghìn loại hình tôn giáo khác nhau. Do cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu khác nhau, cách hiểu về tôn giáo vì vậy cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, đứng dưới góc độ, quan điểm Mácxít về bản chất của tôn giáo chúng ta mới hiểu rõ nét được bản chất của tôn giáo. Tôn giáo, về bản chất, không phải sản phẩm của thần thánh, cái siêu nhiên thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Tôn giáo là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, chịu sự quy định của đời sống vật chất. Ở đây không phải tinh thần, ý thức quyết định đời sống hiện thực mà ngược lại, ý thức, trong đó có ý thức tôn giáo, chỉ là ý thức cá nhân, cộng đồng người trong xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.

Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ăngghen đều xem sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành và phát triển của các hiện tượng mang tính lịch sử xã hội, trong đó có tôn giáo. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, một sản phẩm của thời đại lịch sử nhất định.

 

2.    Nguồn gốc xã hội của tôn giáo

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội nảy sinh trên cơ sở kinh tế - xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Do đó, đi tìm nguồn gốc sự hình thành của nó không phải là bắt đầu đi tìm từ trong “ý thức” mà phải đi từ trong lịch sử xã hội, lịch sử hoạt động thực tiễn của con người.

Tôn giáo ra đời và phát triển được như ngày hôm nay phải nhờ đến rất nhiều những điều kiện cụ thể, cả những điều kiện chủ quan lẫn khách quan. Những điều kiện ấy tác động trực tiếp đến con người (chủ thể tiếp nhận tôn giáo) khiến cho niềm tin tôn giáo hình thành trong nhận thức của con người, để rồi con người bộc lộ nó ra thành những hành động cụ thể. Lần mò về những ngày đầu tôn giáo mới hình thành, ta tìm hiểu sau hơn về nguồn gốc của tôn giáo, đặc biệt là nguồn gốc xã hội của tôn giáo.

-        Sự bất lực của con người trước những yếu tố tự nhiên

Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thủy ra đời trên cơ sở nền sản xuất hết sức kém, thô sơ. Dựa trên nền kinh tế tự nhiên, con người sinh tồn bằng cách săn bắt hái lượm là chính, do chưa có sự phát triển về công cụ lao động cũng như kỹ thuật sản xuất trồng trọt - chăn nuôi. Cuộc sống của con người lúc bấy giờ lệ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Quan hệ giũa các thành viên trong thị tộc, bộ lạc là quan hệ bình đẳng, hợp tác trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Do lực lượng sản xuất thấp kém, giới tự nhiên kỳ bí bao quanh con người là 1 mối đe dọa lớn trực tiếp đến cuộc sống của con người. Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, con người phải đối mặt với những thiên tai bất ngờ ập đến như: mưa, bão lũ, động đất, sóng thần, hạn hán, thú dữ, bệnh tật… Những yếu tố tự nhiên này luôn rình rập, trực chờ để nuốt chửng con người. Con người cảm thấy bản thân vô cùng bé nhỏ và bất lực trước tự nhiên, con người chưa có đủ khả năng và sức mạnh để có thể kiểm soát, làm chủ được tự nhiên, con người bị  khuất phục trước tự nhiên. Vì vậy, đối mặt với những vấn đề nguy cấp mà giới tự nhiên gây ra, con người chỉ có 1 sự lựa chon duy nhất đó chính là tôn thờ các yếu tố tự nhiên ấy. Con người thần thánh hóa sức mạnh to lớn của tự nhiên, nhân hóa những thế lực của tự nhiên, biến những thế lực ấy thành những vị thần có tư duy. Sau đó con người lại cầu xin sự che trở, cứu giúp của những thế lực được thần thánh hóa đó, ở mỗi một quốc gia, tộc người khác nhau, họ cầu xin dưới nhiều hình thức khác nhau tuy nhiên mục đích chung vẫn là cầu nguyện cho giới tự nhiên không làm khó cuộc sống sinh hoạt của con người. Ph. Ăngghen cho rằng: “trong những thời kỳ đầu của lịch sử, chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp”.

-        Sự bất lực của con người trước các thế lực xã hội

Về sau, trong xã hội có giai cấp thì cùng với lực lượng bí ẩn của giới tự nhiên là lực lượng mang tính xã hội luôn thống trị cuộc sống hàng ngày của quần chúng nhân dân. Ph. Ăngghen cho rằng: “ chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động – những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xã lạ, lúc đầu không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như những lực lượng tự nhiên vậy. Những nhân vật ảo tưởng lúc đầu chỉ phản ánh những sức mạnh huyền bí của lực lượng tự nhiên, thì nay lại vì thế có cả nhứng thuộc tính xã hội và trở thành đại biểu cho các lực lượng lịch sử”.

Bế tắc trong đời sống hiện thực, con người tìm đến sự giải thoát trong đời sống tinh thần, họ tìm đến tôn giáo. Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp đã được hình thành, đối kháng giai cấp nảy sinh, các mối quan hệ trong xã hội ngày càng phức tạp, và con người ngày càng chịu sự tác động của các yếu tố tự phát ngẫu nhiên, may rủi… nằm ngoài ý muốn và khả năng điều chỉnh của con người với những hậu quả khó lường. Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị,…Tất cả những yếu tố đó con người quy về số phận và địch mệnh, từ đó họ đã thần thánh hóa một số người thành những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác. Đây cũng là những nguyên nhân xã hội làm nảy sinh tôn giáo trong xã hôi loài người. V.I. Lênin cho rằng sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp bóc lột tất yếu sẽ nảy sinh ra 1 niềm tin, một niền hy vọng về 1 cuộc sống tốt đẹp hởn thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”.

Mặt khác, trong những trường hợp cụ thể nào đó, sự xuất hiện của tôn giáo là để phục vụ cho những yêu cầu kinh tế-xã hội cụ thể. Điều này thể hiện rõ nét ở 1 số tôn giáo, khi những yêu cầu, mục đích kinh tế xã hội bị “tôn giáo hóa” qua những nội dung giáo lý, cách thức hành lễ, tu trì.

Theo Ph.Ăngghen, “ trong xã hội tư sản hiện nay, con người bị thống trị bởi những quan hệ kinh tế do chính họ tạo ra, bởi những tư liệu sản xuất do chính con người sản xuất ra, như là một lực lượng xa lạ. Do đó, cơ sở thực tế của những phản ánh có tính chất tôn giáo của hiện thực vẫn tiếp tục tồn tại và cùng với cơ sở đó thì chính ngay sự phản ánh của nó trong tôn giáo cũng tiếp tục tồn tại”.

Trong những thập kỷ gần đây, với sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được đảm bảo, con người có điều kiện hơn trong việc quan tâm và giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh. Đây cũng là nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và xuất hiện những loại hình tôn giáo mới.

Như vậy, có thể nói ngồn gốc xã hội của tôn giáo là tính hạn chế của lực lượng sản xuất kéo theo sự hạn chế trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. C. Mác cho rằng tính hạn chế thực tế đó đã phản ánh vào trong những tôn giáo cổ đại, thể hiện sự bất lực của con người trước những sức mạnh đang thống trị con người.

Tóm lại, chúng ta có thể thấy được rằng: Tôn giáo được sinh ra là nhờ đến nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau, tuy nhiên xét về nguồn gốc xã hội của tôn giáo thì ta có thể kể đến hai yếu tố chính làm nên sự ra đời và tồn tại của tôn giáo trong xã hội loài người. Thứ nhất, do sự hạn chế về khả năng chinh phục của con người trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên hay xã hội đã khiến cho con người sợ hãi, con người cảm thấy bản thân nhỏ bé trước những sức mạnh to lớn ấy, từ đó dẫn tới sự hình thành tín ngưỡng và cao hơn nữa là sự ra đời và tồn tại của tôn giáo. Thứ hai, trong xã hội có sự thống trị của các giai cấp áp bức bóc lột, giai cấp này đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo,… để ru ngủ sự phản kháng của nhân dân lao động trước những bất công, sự bóc lột áp bức đó.

 

 

 

3.    Ví dụ cụ thể về 1 tôn giáo đã được học để chúng minh cho các vấn đề vừa phân tích.

Thông qua quá trình học tập và tìm hiểu, nhận thấy được Ấn Độ giáo là một tôn giáo lớn, có số lượng tín đồ đông đảo và Ấn Độ giáo có sự ảnh hưởng to lớn đối với nhiều quốc gia trong khu vực, cho nên trong phần bài làm này, em căn cứ vào Ấn độ giáo để chứng minh cho những vấn đề mà em vừa nêu ở phần trên.

Nền văn minh Ấn Độ là một nền văn minh nổi tiếng và thuộc vào những nền văn minh cổ nhất thế giới. Trong quá trình hình thành và phát triển, Ấn Độ đã được mẹ thiên nhiên ban tặng cho nhiều những điều kiện thuận lợi phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi mà mẹ thiên nhiên ban tặng, cũng không ít lần mẹ thiên nhiên đã trút cơn giận dữ xuống vùng đất thiêng liêng này, khiến cho vùng đất nơi đây phải chịu những trận thiên tai vô cùng khốc liệt. Chúng ta có thể kể đến một vài loại thiên tai mà người dân Ấn Độ phải hứng chịu, bên cạnh đó là những giải pháp tâm linh mà người dân nơi đây thực hiện để khắc phục những thiên tai đó.

Thiên tai ảnh hưởng sâu sắc nhất đến cuộc sống của người dân Ấn Độ đó chính là hạn hán. Ấn Độ thường xuyên phải đối mặt với tình trạng hạn hán kéo dài. Đời sống của người dân nơi đây vì hạn hán mà phải chịu những khó khăn , đau khổ. Hạn hán ở Ấn Độ đã dẫn đến hàng chục triệu người chết trong suốt các thế lỉ 18, 19, 20. Nông nghiệp Ấn Độ phụ thuộc rất nhiều vào khí hậu, mùa hè là mùa mưa với gió mùa tây nam cung cấp nguồn nước tưới tiêu cho các vụ mùa ở Ấn Độ. Ở một số vùng ở Ấn Độ, đặc biệt là các vùng hạn hán lớn như Đông nam Maharashtra, bắc Karnataka, Odisha,…Sự thiếu hụt của gió mùa dẫn đến tình trạng thiếu nước, khiến sản lượng cây trồng dưới mức trung bình. Ấn Độ là một đất nước lấy nông nghiệp làm mục tiêu phát triển kinh tế, hạn hán kéo dài khiến cho nền kinh tế Ấn Độ bì tàn phá nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của nhân dân Ấn Độ. Trước đây, hạn hán kéo dài dẫn đến nạn đói ở Ấn Độ nhiều lần, bao gồm nạn đói ở Bengal năm 1770, trong đó đến một phần ba dân số ở các khu vực bị ảnh hưởng; nạn đói năm 1876-1877, trong đó hơn năm triệu người đã chết và nạn đói năm 1899, trong đó hơn 4,5 triệu người chết. Không chỉ riêng hạn hán, có rất nhiều những loại hình thiên tai mà người dân Ấn Độ phải đới mặt như bão lũ, lũ lụt, động đất, dịch bệnh,… Sự thiệt hại mà thiên tai gây ra cho người dân Ấn Độ là vô cùng to lớn, từ đó ta thấy được sự nhỏ bé của người dân nơi đây trước sức mạnh to lớn của thiên nhiên. Người dân Ấn Độ đã tìm kiếm nhiều giải pháp, đặc biệt là những giải pháp tâm linh mà họ cho rằng có thể ngăn chặn được những trận thiên tai. Họ đã lập nhiều đền thờ, tạo ra các vị thần tượng trưng cho các nguyên tố như Đất, nước, lửa, khí,… Mục đích của họ là thờ cúng, cầu nguyện để đáp ứng được nhu cầu của bản thân.

Trong Ấn Độ giáo, con người đã tạo ra rất nhiều những vị thần khác nhau đại diện cho các thế lực, sức mạnh siêu nhiên khác nhau. Trong bối cảnh cuộc sống của người dân Ấn Độ phải chịu nhiều khó khăn do hạn hán kéo dài, mùa màng đói kém thì người dân Ấn Độ đã có những giải pháp tâm linh, thờ cúng một vị thần đó chính là Thần Mariamman- vị thần của mùa màng bội thu. Mariamman là một vị nữ thần mang tính mẫu trong Ấn Độ giáo, phổ biến ở miền Nam Ấn Độ. Có nhiều sự tích khác nhau nhưng nhìn chung, thần Mariamman là một vị thần mưa. Vị thần này có khi được miêu tả là một vị thần có bộ mặt hơi đỏ, có khi được miêu tả chỉ là một khối đá cương sắc nhọn như lưỡi mác. Nhiều người vẫn thường cầu khấn thần giúp cho bách bệnh tiêu tan và vạn sự như ý, trong đó có cả việc sinh con, hỏi vợ hoặc lấy chồng. Ngoài ra, vị thần này còn là vị thần của mùa màng bội thu, đất đai màu mỡ. Sự ảnh hưởng của thần Mariamman là rất lớn, vị thần này còn được thờ tự ở nhiều khu vực xung quanh ngoài Ấn Độ như ở Việt Nam, Singapore,…

Bên cạnh vị thần mùa màng- thần Mariamman thì chúng ta không thể không nhắc đến vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo, một vị thần được người dân Ấn Độ vô cùng kính trọng và tôn thờ, đó chính là thần Vishnu. Thần Vishnu là một trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo. Ngài cùng với thần Brahma và thần Shiva được gọi chung là Trimurti- ba vị thần điều khuyển vũ trụ này. Thần Vishnu là vị thần có tầm quan trọng bậc nhất trong thần thoại Hindu (đôi khi còn hơn cả thần Brahma). Vishnu được mệnh danh là đấng bảo hộ của vạn vật, ngài là vị thần bảo vệ cho thế gian tránh khỏi cái ác và tai họa, ngài thường xuất hiện trong nhiều hóa thân khác nhau, xuống trần gian giúp con người chống lại ma quỷ. Trong các bức tranh miêu tả thần Vishnu, người ta thường vẽ thần nằm ngủ trên thân con rắn nghìn đầu Adhi Sesha và vợ ngài- nữ thần Laskshmi ngồi bên cạnh bóp chân cho ngài. Trên thực tế, theo giáo phái Vaishnavism thì lại coi vị thần này mới là Đấng tối cao trong cả vũ trụ. Thậm chí họ còn kể rằng thần Brahma được sinh ra từ một đóa sen mọc ra từ chính lỗ rốn của thần Vishnu.

Đây chính là bằng chứng điển hình cho luận điểm: con người bất lực trước sức mạnh của tự nhiên, đối mặt với những vấn đề nguy cấp mà giới tự nhiên gây ra, con người chỉ có 1 sự lựa chon duy nhất đó chính là tôn thờ các yếu tố tự nhiên ấy. Con người thần thánh hóa sức mạnh to lớn của tự nhiên, nhân hóa những thế lực của tự nhiên, biến những thế lực ấy thành những vị thần có tư duy. Sau đó con người lại cầu xin sự che trở, cứu giúp của những thế lực được thần thánh hóa đó.

Tiếp theo, về nội dung “ Sự bất lực của con người trước các thế lực của xã hội”. Trong xã hội Ấn Độ, từ xã xưa đã tồn tại 1 chế độ phân chia đẳng cấp. Chế độ phân chia đẳng cấp này mang tên là Varnas. Hệ thống phân chia đẳng cấp-Varnas ở Ấn Độ là một ví dụ dân tộc học mẫu mực về đẳng cấp. Đẳng cấp là các nhóm xã hội cứng nhắc được cha truyền con nối về phong cách, nghề nghiệp và vị trí xã hội. Nó có nguồn gốc từ Ấn Độ cổ đại, và được biến đổi bởi nhiều tầng lớp cai trị khác nhau ở Ấn Độ thời trung cổ, sơ khai và cận đại, đặc biệt là Đế quốc Mughal và Raj thuộc Anh. Ngày nay nó là cơ sở của các chương trình hành động khẳng định ở Ấn Độ Khoảng năm 2000 TCN, Ấn Độ thuộc về người Aryan là bộ lạc du mục có ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn – Âu xâm nhập. Người Aryan đến Ấn Độ định cư, phát triển sản xuất nông nghiệp, dùng trâu bò làm sức kéo. Họ tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chinh phạt, đàn áp người bản địa, gọi người bản địa là “đa xa” (kẻ địch). Phần lớn dân bản địa bị người Aryan giết hại, một số bị bắt làm nô lệ, một số bỏ trốn. Dưới sự cai trị của người Aryan, khoảng 1.000 năm TCN, ở Ấn Độ, Hindu giáo trở thành tôn giáo chính và chế độ phân biệt đẳng cấp (Varnas) bắt đầu xuất hiện rõ nét, được chế định hóa trong bộ luật Manu nổi tiếng. Theo đó, đẳng cấp cao nhất là những người Bà-la-môn (Brahman), gồm các tăng lữ trông coi những việc tế lễ tôn giáo và các triết gia, học giả. Họ thâu tóm quyền lực trong lĩnh vực văn hóa và tôn giáo một số tham gia vào công việc triều chính như cố vấn, niệm thần chú, v.v… Họ tự nhận mình là hạng cao thượng, sinh từ miệng Phạm Thiên (Brahma – Đấng Tối cao của Hindu giáo) thay Phạm Thiên cầm cương lãnh đạo tinh thần dân tộc, nên có quyền ưu tiên được tôn kính, và an hưởng cuộc đời sung sướng nhất. Đẳng cấp thứ hai là Sát-đế-ly (Kshastriya), là những võ sĩ. Họ tự cho mình sinh từ cánh tay Phạm Thiên, thay mặt cho Phạm Thiên nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng. Họ họp thành tập đoàn quý tộc quân sự – hành chính, nắm quân đội và chính quyền. Nhà vua thường là người thuộc tầng lớp này. Tầng lớp thứ ba là Vệ-Xa (Vaisya), người bình dân, gồm những người làm nghề nông và chăn nuôi, buôn bán. Họ thuộc tầng lớp bình dân, có một số giàu có lên. Tuy họ không có được đặc quyền trong xã hội, phải nộp sưu thuế phục vụ lớp người bóc lột thuộc hai tầng lớp trên, song họ vẫn có thân phận tự do. Đẳng cấp thứ tư là Thu-Đà-La (Soudra), là những tiện dân và nô lệ. Họ được giáo dục rằng mình sinh từ gót chân Phạm Thiên, nên thủ phận làm khổ sai suốt đời cho các giai cấp trên. Họ làm những công việc nông tang, đánh cá, săn bắn và những việc nặng nhọc khác nhưng ở vào địa vị thấp kém nhất, không được pháp luật bảo hộ, không được tham gia vào các hoạt động tôn giáo. Nếu một người Thu-Đà-La dám cả gan nghe trộm tụng kinh sẽ bị đổ thiếc nung chảy vào tai. Đẳng cấp thứ năm là Ba-ri-a (Pariah), giống người cùng khổ, bị coi như sống ngoài lề xã hội loài người, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, vô cùng khổ nhục, tối tăm.

Chế độ phân biệt đẳng cấp được coi là bất biến, áp dụng từ khi mỗi người được sinh ra. Người ở đẳng cấp dưới có nghĩa vụ buộc phải tôn kính những người ở đẳng cấp trên. Kinh của Hindu giáo từng ghi rõ: “Một người Bà-la-môn dưới 10 tuổi cũng có thể coi là cha của một kẻ ở các đẳng cấp dưới, dầu cho kẻ ấy đã 100 tuổi”. Người thuộc đẳng cấp thấp không được có quyền kết hôn với những người thuộc đẳng cấp cao hơn. Những người ở đẳng cấp trên có quyền lấy người ở cấp dưới làm vợ. Nếu người đàn ông lớp dưới dám lấy một phụ nữ ở đẳng cấp trên, thì con cái họ sẽ bị xếp vào hạng tiện dân. Ngày nay, mặc dù không còn được chính thức công nhận nhưng chế độ phân biệt đẳng cấp vẫn có ảnh hưởng sâu đậm đến xã hội Ấn Độ, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn.

Chính sự tồn tại của hệ thống đẳng cấp Varnas đã khiến cho sự mâu thuẫn của các tầng lớp đẳng cấp trở nên ngày càng gay gắt. Các tầng lớp thống trị ở trên sử dụng tôn giáo như một thứ công cụ nhằm kiểm soát, răn đe, đe dọa tầng lớp dưới. Các tầng lớp trên sử dụng tôn giáo nhằm mục đích chuộc lợi về bản thân. Các tầng lớp thấp kém bên dưới do chịu sự quy định của xã hội nên cam tâm để cho tầng lớp trên bóc lột, khiến cho cuộc sống của họ giống như địa ngục, vô cùng khó khăn và vất vả.

Đối mặt với những bất công xã hội, không tìm kiếm được sự an ủi nào khác ngoài sự an ủi từ tôn giáo, người dân Ấn Độ tìm đến Ấn Độ giáo như một liều thuốc an thần, giúp họ giải tỏa được những căng thẳng áp lực trong cuộc sống. Người Ấn Độ thực hiện những nghi lễ lớn nhằm đáp ứng được nhu cầu tâm linh, phải kể đến những nghi lễ lớn như: lễ hội tắm sông hằng, lễ hội ánh sáng Diwali, lễ hội màu sắc Holi và hàng trăm lễ hội lớn nhỏ khác nhau…

Lễ hội Diwali được biết đến là lễ hội truyền thống lớn nhất tại Ấn Độ. Còn được nhiều người gọi bằng một cái tên khác là "Lễ hội của những chiếc lồng đèn" bởi ánh sáng rực rỡ mà nó mang lại cho lễ hội. Diwali cũng giống như tết Nguyên Đán của Việt Nam. Là một lễ hội ăn mừng năm mới của những người theo đạo Hindu. Là dịp để mọi người cầu bình an, nguyện ước sức mạnh chính nghĩa sẽ đẩy lùi bóng tối và nghèo đói, mang đến cuộc sống ấm no. Lễ hội Diwali sẽ kéo dài trong khoảng thời gian là 5 ngày. Bắt đầu từ đêm 28 của tháng Ashwin- tháng 10, cho tới ngày thứ 2 của tháng Kartika- tháng 11 trong lịch Ấn Độ. Mỗi ngày của lễ hội đều mang đến một ý nghĩa và tên gọi khác nhau. Ngày thứ nhất dành để ăn mừng cho sự giàu có và thịnh vượng, gọi là Dhanteras. Ngày thứ hai gọi là Choti Diwali.Và ngày lễ Diwali chính diễn ra vào ngày thứ ba. Ngày thứ 4 là ngày ăn mừng và đề cao giá trị tình nghĩa vợ và chồng, gọi là Padwa hay còn biết đến tên gọi khác là Govardhan Puja- lễ tại ơn thần Krishna. Ngày cuối cùng là Bhai Duj, ngày dành riêng cho tình anh chị em trong gia đình. Một trong những điểm ấn tượng nhất trong lễ hội Diwali là nhà nhà đốt pháo, người người đốt pháo. Kết hợp với những chiếc đèn bằng đất sét Diyas được thắp sáng, tạo thành một lễ hội ánh sáng vô cùng huy hoàng và rực rỡ. Qua đó con người mong ước ý nghĩa chiến thắng của chính nghĩa.

Lễ hội màu sắc Holi là một lễ hội màu sắc truyền thống quan trọng của đất nước Ấn Độ. Cũng như những quốc gia có nhiều cộng đồng người theo đạo Hindu sinh sống, diễn ra vào mùa thu hàng năm. Đây là một lễ hội vô cùng đặc sắc, thể hiện sự tự do, bình đẳng, không giai cấp trong xã hội qua hành động ném bột màu vào nhau. Vì vậy, bạn có thể dễ dàng nhận ra nét đặc trưng của lễ hội này là bất kỳ người nào đi qua thì sẽ bị ném bột màu, nước màu vào người. Thông thường, sau khi nghi lễ thắp đèn truyền thống hoàn thành, cũng là lúc mọi người được tự do, vui vẻ cùng nhau thưởng thức đồ ăn, ném bột màu và hòa mình vào không khí sôi động của những điệu nhảy truyền thống độc đáo. Những loại bột màu được sử dụng có rất nhiều màu sắc sặc sỡ. Nhưng nó đều được pha trộn từ những màu sắc có trong tự nhiên và dễ dàng tẩy rửa sau khi kết thúc lễ hội như: màu vàng nghệ tây, gỗ đàn hương, hoa hồng... Trò chơi ném màu thú vị này luôn luôn thu hút tất cả mọi người tham gia, nó cũng làm không ít du khách hứng thú. Mọi người cứ như một bức tranh nghệ thuật đầy màu sắc và vô cùng sống động.

 

Các nghi lễ, lễ hội nêu trên đều là các hoạt động giúp cho người dân Ấn Độ thỏa mãn được nhu cầu tâm linh của bản thân, là giải pháp giúp người dân tìm được sự bình yên, gạt bỏ được những bất công, sự áp bức bóc lột mà họ phải chịu đựng trong cuộc sống. đây chính là nguồn gốc xã hội thứ hai: “ sự bất lực của con người trước các thế lực của xã hội”.

 

 

4.    Quan điểm của Anh/chị về vấn đề sự phát triển của khoa học và tôn giáo trong thời đại ngày nay.

Thế giới và cả nhân loại đang bước vào thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ tới quá trình toàn cầu hóa, là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình này. Những tiến bộ của khoa học – kỹ thuật và công nghệ bao gồm những phát minh, sáng chế, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống mới, các phương pháp công nghệ hiện đại, các lý thuyết và phương thức quản lý mới trong mọi lĩnh vực được áp dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh làm tăng năng suất lao động, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư cho xã hội với chi phí thấp hơn, giá rẻ hơn, tạo ra tiền đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển sự phân công, chuyên môn hóa lao động, sản xuất và kinh doanh theo ngành nghề, vùng lãnh thổ và giữa các quốc gia. Nhờ đó, thương mại và trao đổi quốc tế về hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức ngày một tăng. Sự phát triển của khoa học – công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai đã mở đường cho sự hình thành và phát triển nhanh chóng của thị trường thế giới. Nếu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chủ yếu dựa vào máy hơi nước, sắt và than thì cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai chủ yếu dựa vào máy chạy bằng nhiên liệu lỏng, điện và năng lượng nguyên tử và những vật liệu đặc biệt: kim loại không sắt, chất dẻo, sợi hóa chất, đặc biệt là dựa vào những thành tựu của lĩnh vực thông tin và phương thức quản lý mới. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong ngành giao thông và kỹ thuật thông tin làm cho thế giới bị thu nhỏ lại về không gian và thời gian. Các chi phí về vận tải, về thông tin ngày càng giảm, sự cách trở về địa lý dần được khắc phục, các quốc gia và dân tộc trở nên gần gũi hơn với những hình ảnh và thông tin được truyền hình liên tục về các sự kiện đang xẩy ra ở mọi nơi trên trái đất. Càng ngày, khoa học và công nghệ càng phát triển, nhân loại đang dần tiến tới những bước tiến mới trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Sự phát triển của khoa học và kĩ thuật ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển và tồn tại của tôn giáo. Sự phát triển này tưởng chừng như khiến cho tôn giáo dần mất đi bởi vì tôn giáo phản ánh thế giới quan hư ảo trong tâm trí của con người, tôn giáo là liều thuốc an thần giúp cho con người biện minh cho những vấn đề mà con người chưa khám phá ra, những vấn đề vượt xa sự hiểu biết của con người. Thế giới ngày càng trở nên hiện đại, kéo theo đó là sự hiểu biết của con người đang ngày một được nâng cao. Chúng ta có thể khẳng định rằng thế giới quan của con người ngày càng được mở rộng. Con người dần khám phá ra những câu hỏi mà ta đã đặt ra trước đó, những điều bí ẩn trên thế giới không còn là điều gì quá xa lạ đối với con người. Vì thế con người không cần đến tôn giáo để giải thích cho những điều mà họ chưa giải thích được. Bên cạnh đó, lực lượng sản xuất phát triển, con người đã dần làm chủ được những sức mạnh của thiên nhiên. Con người ngày càng phát triển, chế ngự được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải làm theo ý muốn của con người. Nếu ngày xưa, khi con người còn chưa có sự phát triển, còn phải lệ thuộc vào thiên nhiên, ví dụ như mỗi khi bão lũ, con người vì chưa hiểu biết nên sẽ mặc nhiên coi đó là hiện tượng do thần linh trừng phạt lên con người, con người chỉ biết chấp nhận sự trừng phạt ấy. Tuy nhiên ngày nay khi khoa học và công nghệ phát triển, kỹ thuật và tay nghề của con người phát triển thì khi đứng trước những hiện tượng bão lú ấy, con người đã tự biết khắc phục bao lũ bằng cách đắp đê, xây đập thủy điện. Không dừng lại ở đó, con người còn tận dụng thiên tai bão lũ để đem lại lợi ích cho chính con người, đập thủy điện do con người xây sẽ tận dụng những cơn mưa, những trận lũ để có thể sản xuất ra điện phục vụ đời sống sản xuất cho con người. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ cho thấy con người trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển đã ngày càng chế ngự được thiên nhiên, khiến thiên nhiên phục vụ cho con người, vì mục đích, lợi ích của con người.

Tôn giáo càng ngày càng có nguy cơ bị biến mất trước những sự phát triển của khoa học và kỹ thuật trong thời đại ngày nay. Đời sống của con người ngày càng được phát triển và nâng cao (cả đời sống thể chất lẫn tinh thần). Tôn giáo ra đời nhằm mục đích thỏa mãn đời sống tinh thần của con người, tuy nhiên ngày nay, con người lại tìm kiếm đến những thú vui khác ngoài tôn giáo để có thể đáp ứng được nhu cầu tinh thần của bản thân. Có hàng trăm những hoạt động giải trí khác nhau được ra đời thay cho tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần cho người dân. Sự ra đời của các hình thức giải trí khác nhau đẫ khiến cho tốn giáo mất đi chỗ đứng vững chắc trong lòng người dân.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó khi khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách khoa học và đầy đủ thì tôn giáo sẽ dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.

Tuy nhiên, trái ngược với quan điểm tôn giáo ngày càng bị tiêu vong do sự phát triển của khoa học và công nghệ, em cho rằng tôn giáo ngày nay đã có sự biến đổi gắn liền với sự phát triển của thời đại khoa học và công nghệ. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, nghĩa là có sự hình thành, tồn tại và phát triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có khả năng biến đổi để nhằm thích nghi với nhiều điều kiện chính trị xã hội. Khi các điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện lịch sử thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi theo. Trong quá trình vận động của các tôn giáo, chính các điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử cụ thể đã làm tôn giáo bị phân liệt, chi thành nhiều tôn giáo, nhiều hệ phái khác nhau. Mặt khác quá trình vận động biến đổi của từng gia đoạn lịch sử tôn giáo có sự biến đổi sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, kết cấu chính trị và xã hội của giai đoạn đó.

Trong điều kiện thế giới ngày càng phát triển về khoa học và công nghệ hiện nay, tôn giáo vẫn đóng một vai trò quan trọng và luôn luôn tồn tại song hành với xã hội của con người. Tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong thời đại công nghệ và khoa học phát triển, đó là một thực thể khách quan do các nguyên nhân chủ yếu sau đây: nguyên nhân kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa, nhận thức, và nguyên nhân tâm lý.

Xét về nguyên nhân kinh tế, trong quá trình xây dựng một  xã hội phát triển dựa trên trình độ cao về khoa học và kỹ thuật, chúng ta đã từng bước tạo dựng đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tăng cho mọi thành viên trong xã hội, những thành quả đó là vô cùng to lớn, tuy nhiên chúng chưa đủ để tạo ra sự biến đổi triệt để và sâu sắc trong đời sống ý thức, tư tưởng của mỗi cá nhân, khi mà sự biến đổi về ý thức, tư tưởng thường chậm hơn sự biến đổi của các điều kiện kinh tế xã hội.

Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển, nền kinh tế của xã hội là nền kinh tế nhiều thành phần với sự khác nhau về lợi ích của các giai tầng trong xã hội, và những mặt trái của nó như: sự bất bình đẳng lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội giữa các giai tầng, giữa các cộng đồng dân cư, sự phân hóa giàu nghèo… đã khiến cho con người chịu sự tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên may rủi… từ đó con người lại tìm đến tôn giáo như một niềm an ủi tinh thần.

Trên thế giới, cho dù khoa học và công nghệ có phát triển đến nhừng nào thì ở đâu đó vẫn còn sự tồn tại của đấu tranh giai cấp. Các cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội khác nhau diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng, tinh vi và phức tạp; trong đó, nhiều lực lượng chính trị vẫn chú ý và duy trì tôn giáo vào nhiều mục đích chính trị khác nhau. Mặt khác những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tình trạng bạo loạn, khủng bố… vẫn liên tục xảy ra ở nhiều nơi khác nhau. Nỗi sợ của quần chúng nhân dân về chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật… cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại và phát triển. Trong điều kiện mới, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi và thích nghi để “đồng hành cùng với dân tộc”, chấp nhận những điều kiện chính trị xã hội mới, những biến đổi của xã hội đặc biệt là sự phát triển của khoa học và công nghệ để tồn tại. Hơn nữa, trong bản thân mỗi tôn giáo đều chứ đựng những giá trị đạo đức, văn hóa phù hợp với mực đích, yêu cầu của công cuộc xây dựng xã hội mới (phát triển về khoa học và kĩ thuật) có khả năng đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.

Về nguyên nhân văn hóa, ở một mức độ nào đó, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, có khả năng đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa giáo dục về ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Nhiều giá trị văn hóa của các tôn giáo (cả văn hóa vật thể lẫn phi vật thể, cả tư tưởng văn hóa lẫn đời sống văn hóa) đang có những đóng góp to lớn và trở thành một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa mỗi dận tộc, mỗi quốc gia. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó, sự tồn tại của tôn giáo trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển như một hiện tượng xã hội khách quan.

Về nguyên nhân nhận thức: Những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới,… đã giúp con người có thêm khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song, hiện thực khách quan là vô cùng vô tận, tồn tại đa dạng và phong phú , còn rất nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học vẫn chưa thể làm rõ. Chính sự phát triển của khoa học và công nghệ luôn tạo ra những khoảng trống mới trong nhận thức, và do đó càng khẳng định những điều con người chưa biết còn vô cùng, vô tận. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng, còn tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào thánh thần , đấng siêu nhiên… chưa thể thoát ra khỏi ý thức của nhiều người trong xã hội. Hơn nữa, trong thời đại phát triển ngày nay, mặt bằng dân trí của nhân dân còn chưa thực sự cao, khả năng nhận thức những vấn đề xảy ra trong cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế.

Tiếp đến là nguyên nhân về tâm lý. Trong thời đại xã hội ngày càng có sự phát triển về khoa học và kỹ thuật, những cơ sở tồn tại và phát triển của tôn giáo vẫn chưa thể mất đi. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội nhiều khi vẫn tác động mạnh mẽ, chi phối sâu sắc đời sống con người, con người vẫn cảm thấy bất an, sợ hãi khi đối mặt với những tác động đó. Mặt khác, khi tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng sâu sắc đến cách nghĩ, lối sống của một bộ phận quần chúng nhân dân thì nó sẽ trở thành phong tục tập quán, thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong đời sống của họ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

C –  Kết luận :

 

 

Tôn giáo là 1 hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Trên thế giới có tới hàng nghìn loại hình tôn giáo khác nhau. Do cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu khác nhau, cách hiểu về tôn giáo vì vậy cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, đứng dưới góc độ, quan điểm Mácxít về bản chất của tôn giáo chúng ta mới hiểu rõ nét được bản chất của tôn giáo. Tôn giáo, về bản chất, không phải sản phẩm của thần thánh, cái siêu nhiên thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Tôn giáo là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, chịu sự quy định của đời sống vật chất. Ở đây không phải tinh thần, ý thức quyết định đời sống hiện thực mà ngược lại, ý thức, trong đó có ý thức tôn giáo, chỉ là ý thức cá nhân, cộng đồng người trong xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.

Tóm lại, chúng ta có thể thấy được rằng: Tôn giáo được sinh ra là nhờ đến nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau, tuy nhiên xét về nguồn gốc xã hội của tôn giáo thì ta có thể kể đến hai yếu tố chính làm nên sự ra đời và tồn tại của tôn giáo trong xã hội loài người. Thứ nhất, do sự hạn chế về khả năng chinh phục của con người trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên hay xã hội đã khiến cho con người sợ hãi, con người cảm thấy bản thân nhỏ bé trước những sức mạnh to lớn ấy, từ đó dẫn tới sự hình thành tín ngưỡng và cao hơn nữa là sự ra đời và tồn tại của tôn giáo. Thứ hai, trong xã hội có sự thống trị của các giai cấp áp bức bóc lột, giai cấp này đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo,… để ru ngủ sự phản kháng của nhân dân lao động trước những bất công, sự bóc lột áp bức đó.

Các quan điểm xoay quanh vấn đề sự phát triển của khoa học và tôn giáo trong thời đại ngày nay đều đã được đưa ra và đánh giá một cách khách quan. Có quan điểm cho rằng: “ Tôn giáo càng ngày càng có nguy cơ bị biến mất trước những sự phát triển của khoa học và kỹ thuật trong thời đại ngày nay”, bên cạnh đó là quan điểm: “Trong điều kiện thế giới ngày càng phát triển về khoa học và công nghệ hiện nay, tôn giáo vẫn đóng một vai trò quan trọng và luôn luôn tồn tại song hành với xã hội của con người”. Hai luông ý kiến trên, chúng ta không thể đáng giá được ý kiến nào là ý kiến đúng, cái nào là sai. Để nhận định được chúng, ta cần phải có thêm thời gian để nghiên cứu và chứng minh thêm.

 

 

 

 

 

 

Danh mục tài liệu tham khảo:

1, PGS.TS. Trần Đăng Sinh (2017), Tôn giáo học, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 19,27

2, Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học (2021), NXB Chính Trị Quốc Gia sự thật, trang 289, 298.

3, https://partnergroup.vn/ton-giao-cac-vi-than-hindu/

4,https://toplist.vn/top-list/le-hoi-van-hoa-truyen-thong-dac-sac-nhat-cua-an-do-23438.htm

5, https://nghiencuuquocte.org/2016/03/04/che-do-dang-cap-cua-an-do/

6, https://www.absolutviajes.com/vi/india/vishnu-uno-de-los-dioses-mas-importantes-de-la-india/

7, https://www.migolatravel.com/kham-pha-nen-van-minh-qua-nhung-thanh-tuu-noi-bac/

 

 

 

 

 

Đọc tiếp »

TƯ TƯỞNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM THỜI KỲ BẮC THUỘC

I.                Cơ sở giai đoạn của thời kì Bắc thuộc và chính sách cai trị  1.1. Thời thuộc Hán 1.2. Thời thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề,...